Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang
Book hàng xuất nhập khẩu - vận tải hàng hóa
Sơ lược về tình hình kinh tế tại Tiền Giang
Quý I năm 2022, dịch bệnh Covid-19 với sự xuất hiện của biến thể mới Omicron tuy ít nguy hiểm hơn biến thể Delta nhưng tốc độ lây lan nhanh đã làm số ca bệnh tăng nhanh trên phạm vi cả nước nói chung và Tiền Giang nói riêng. Bên cạnh đó, xung đột giữa Nga và Ukraine kéo theo các lệnh trừng phạt tạo ra nhiều rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Trong tỉnh các hoạt động kinh tế – xã hội chuyển sang trạng thái bình thường mới,với sự chỉ đạo tập trung của Tỉnh uỷ, sự điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong việc triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời và đồng bộ các chủ trương, chính sách, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ngay từ đầu năm, để đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh; Dịch bệnh Covid-19 tiếp tục được kiểm soát, tình hình kinh tế – xã hội cơ bản vẫn giữ ổn định, nhiều ngành, lĩnh vực từng bước phục hồi và phát triển.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) quý I năm 2022 ước đạt 14.741 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 2,06% so với quý I năm 2021, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,73 %, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,03% và khu vực dịch vụ tăng 1,63 % (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 2,23 % và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 0,91% so cùng kỳ.
Trong 2,06% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 0,67%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,84%, khu vực dịch vụ đóng góp 0,62% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm làm giảm 0,06%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 25.078 tỷ đồng.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: quý I năm 2022 tăng 1,73% so với quý I năm 2021; trong đó nông nghiệp tăng 1,87%. Trồng trọt trong quý có nhiều thuận lợi hơn năm 2021, công tác phòng chống hạn mặn được triển khai sớm, diện tích bị thiệt hại không nhiều.
Trà lúa Đông Xuân năm nay phát triển tốt, năng suất bình quân ước tính đạt 71,1 tạ/ha, tương đương so cùng kỳ; Tuy nhiên do diện tích gieo sạ giảm 3.610 ha nên sản lượng thu hoạch giảm 4,8% so cùng. Các vườn cây ăn trái ở các huyện phía Tây chịu tác động của hạn, mặn năm 2020 được nông dân chăm sóc, từng bước được phục hồi.
Giá phân bón tăng cao so cùng kỳ, trong khi giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm nhất là Thanh long và Mít do xuất khẩu sang Trung quốc gặp khó khăn, nên nông dân có lãi không nhiều. Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch tả lợn châu Phi tuy được kiểm soát tốt nhưng còn xảy ra ở một số địa phương, giá thức ăn tăng cao, giá bán sản phẩm đầu ra giảm nên việc tái đàn trên địa bàn tỉnh còn chậm.
Ước tính đến thời điểm 01/3/2022 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 124,1 ngàn con, tăng 3,4% so cùng kỳ; đàn lợn 281,4 ngàn con, tăng 7,6% so cùng kỳ; đàn gia cầm 17,6 triệu con, giảm 18,6% so cùng kỳ.
Ngành thủy sản tăng 1,05% so cùng kỳ, tăng chủ yếu ở sản lượng nuôi trồng; Giá thủy sản ổn định và duy trì ở mức người nuôi có lãi, đặt biệt là giá tôm và cá tra thương phẩm từ sau tết Nguyên đán vẫn đang duy trì ở mức khá cao đã góp phần tạo động lực cho người dân trên địa bàn tỉnh đầu tư sản xuất.
Hoạt động khai thác thủy sản còn nhiều khó khăn do giá nhiêu liệu tăng cao, chi phí nhiên liệu cho hoạt động khai thác chiếm khoảng 70% trong tổng chi phí đánh bắt thủy sản, do giá nhiên liệu tăng nên ảnh hưởng đến thu nhập ngư dân. Lượng tàu ra khơi những tháng đầu năm 2022 thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 khoảng 20 – 30% do ảnh hưởng của dịch Covid-19 dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp, thiếu thuyền viên,…
Khu vực công nghiệp – xây dựng: tăng 3,03% so với quý I năm 2021; trong đó công nghiệp tăng 2,41%. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất … do tác động của dịch Covid – 19, nhưng có dấu hiệu khởi sắc qua kết quả sản xuất trong quí I. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 1 giảm 0,01%, tháng 2 tăng 1,35% và tháng 3 tăng 5,78% so với cùng kỳ năm 2021.
Theo kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh, dự báo xu hướng sản xuất kinh doanh quý II năm 2022, có 50% số doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo dự báo tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý II/2022 tốt lên so với quý I/2022 và 29,35% dự báo giữ ổn định; có 20,65% doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn so với quý I/2022.
Nếu không có biến động lớn về kinh tế, dự báo công nghiệp của tỉnh sẽ tăng dần trong những tháng cuối năm. Ngành xây dựng tăng 7,29%, là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng tốt nhất trong quý I năm 2022. Hoạt động xây dựng tăng cao là do 6 tháng cuối năm 2021 trên địa bàn tỉnh thực hiện giản cách xã hội để phòng chống dịch Covid – 19 nên các công trình tạm dừng hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng.
Đến quí I năm 2022 tiêm ngừa vacin phòng chống covid đã được bao phủ, các hoạt động được phép mở cửa trở lại nên nhu cầu xây dựng trong dân tăng. Mặc khác, trên địa bàn tỉnh có nhiều công trình trọng điểm của địa phương và trung ương đang được triển khai; trong đó có dự án cao tốc Trung lương – Mỹ Thuận đang trong giai đoạn hoàn thiện dự kiến đưa vào khai thác cuối năm 2022.
Khu vực dịch vụ: tăng 2,23% so cùng kỳ; Thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, trong quí I, các cấp, các ngành tập trung chuẩn bị và tổ chức tốt các hoạt động đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, đảm bảo mọi người, mọi nhà đều đón Tết trong không khí đầm ấm, lành mạnh, an toàn.
Các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh từng bước được phép hoạt động trở lại theo lộ trình với qui mô phù hợp nhằm đảm bảo công tác phòng chống dịch. Tuy nhiên có một số ngành còn giảm sâu so với cùng kỳ như:
- Du lịch lữ hành giảm 11,63%, từ đầu năm đến nay và nhất là từ sau Tết Nguyên đán, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh, thành phố trước biến chủng mới Omiron xuất hiện, do đó nhiều chương trình du lịch của các hãng lữ hành chưa hút khách mạnh trở lại, lượt khách đến tỉnh quí I đạt 84,3 ngàn lượt, giảm 44,2% so cùng kỳ;
- Khách sạn, nhà hàng giảm 28,61%;
- Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ giảm 16,9%;
- Vận tải, kho bãi giảm 11,65%, dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây lan mạnh nên hoạt động vận tải hành khách gặp nhiều khó khăn với lượng hành khách vận chuyển giảm 17,3%, trong khi đó vận chuyển hàng hóa ghi nhận ở mức tăng 3,2% .
- Hoạt động vận tải chưa được phục hồi, nhưng giá xăng dầu trong quí I tăng cao làm cho hoạt động của ngành này càng khó khăn hơn …
Bên cạnh đó có một số ngành tăng khá so cùng kỳ như:
- Hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,47%;
- Hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 5,37%;
- Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 6,86%;
- Hoạt động y tế và trợ giúp xã hội tăng 4,02% …
- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý I giảm 0,91% so cùng kỳ.
10 thị trường xuất khẩu thủy sản chính
Thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong năm qua đã có nhiều biến động và thay đổi do làn sóng COVID-19 lần thứ 4 hoành hành tại khu vực phía Nam. Nhiều thị trường chính giảm tỷ trọng do các vấn đề về logistics, giảm nhu cầu nhập khẩu… và thay vào đó là sự tỏa sáng của nhiều thị trường nhỏ.
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
CPTPP
Sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang khối thị trường này tăng trưởng gần 3% năm 2019. Nhưng năm 2020 và 2021, xuất khẩu thủy sản sang khối CPTPP sụt giảm 2% chủ yếu do tác động COVID-19 làm ảnh hưởng giao thương và giảm nhu cầu nhập khẩu. Với kim ngạch 2,2 – 2,3 tỷ USD/năm, khối CPTPP chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần 28% năm 2021 và dẫn đầu trong nhóm thị trường xuất khẩu chính.
Mỹ
Tính đến cuối tháng 11, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ vẫn tăng trưởng mạnh nhất với gần 1,87 tỷ USD, tăng 26% so cùng kỳ năm 2020. Tôm, cá tra, cá ngừ là 3 dòng sản phẩm chính xuất khẩu sang Mỹ, chiếm lần lượt 53%, 17% và 15,6% tổng xuất khẩu thủy sản sang thị trường này. Đặc biệt, Mỹ là mảng sáng nhất trong bức tranh xuất khẩu cá tra Việt Nam trong năm nay.
Theo VASEP, năm nay, xuất khẩu tôm chế biến các loại của Việt Nam sang Mỹ đều tăng mạnh: tôm chế biến mã HS 1605211030 tăng 25%, mã HS 1605211020 tăng 35%; mã HS 1605290500 tăng 16%, mã HS 1605291010 tăng 22%. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm đông lạnh mã HS 0306170040 giảm 41%.
Thị trường Mỹ đang hồi phục rất mạnh nhu cầu thủy sản nhập khẩu, nhất là các sản phẩm tôm, cua ghẹ…
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
Trung Quốc và Hồng Kông
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc giảm 22%, lũy kế 11 tháng đầu năm 2021 đạt 1 tỷ USD. Dự báo xuất khẩu sang thị trường này cả năm 2021 sẽ không lạc quan.
Riêng trong tháng 10, giá trị xuất khẩu cá tra sang Trung Quốc – Hồng Kông đạt 31 triệu USD, giảm 61% so với tháng trước đó. Lũy kế 10 tháng, kim ngạch xuất khẩu cá tra sang thị trường này đạt 310 triệu USD, giảm 27% so cùng kỳ năm trước. VASEP cho rằng năm 2021 Trung Quốc nâng hàng rào thương mại đối với các sản phẩm thủy sản nhập khẩu khiến hàng hóa bị ách tắc ở cảng, bao gồm cá tra Việt Nam, cá minh thái của Nga, cá hồi Na Uy.
EU
Theo VASEP, tính đến hết tháng 11, xuất khẩu sang EU hồi phục tích cực với mức tăng 10%, đạt 957 triệu USD. Dự báo cả năm 2021 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này đạt khoảng 1 tỷ USD, tăng 4%.
Nguyên nhân của việc tăng trưởng chậm là do từ tháng 8 đến nay, dịch COVID-19 bùng phát mạnh ở các tỉnh, thành phía Nam, ảnh hưởng đến sản xuất nguyên liệu trong nước, làm giảm cơ hội tận dụng ưu đãi thuế quan. Nhiều mặt hàng thủy sản như cá ngừ, mực, bạch tuộc thiếu nguồn nguyên liệu trong nước, phải nhập khẩu nên không được hưởng thuế ưu đãi. Ngoài ra, với nguyên liệu thủy sản đánh bắt trong nước, thủ tục xác nhận và chứng nhận theo quy định IUU gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu container, cước hàng hóa đường biển tăng gấp nhiều lần khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ bỏ cuộc.
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
Hàn Quốc
Lũy kế xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Hàn Quốc 11 tháng đầu năm 2021 tăng nhẹ 2,7%, đạt 717 triệu USD.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, bạch tuộc là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường này trong nửa đầu năm nay, trong đó nhiều nhất là các sản phẩm bạch tuộc đông lạnh chiếm tới 80% tổng giá trị xuất khẩu. Sản phẩm này cũng được hưởng ưu đãi thuế quan 0% khi xuất sang thị trường Hàn Quốc. Việt Nam đứng thứ 2 về cung cấp mực, bạch tuộc cho Hàn Quốc, sau Trung Quốc.
Ngoài ra, Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ 5 của Việt Nam, chiếm 9,5% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam. Dự kiến tôm Việt Nam sang thị trường này cả năm 2021 tăng khoảng 3 – 5% so với năm ngoái.
Anh
Anh hiện chiếm trên 4% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Đầu năm 2021, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư số 02/2021/TT-BCT về quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA). Theo đó, lô hàng có trị giá dưới 6.000 EUR, bất kỳ nhà xuất khẩu nào cũng được phép tự chứng nhận xuất xứ.
Với cam kết có được từ Hiệp định UKVFTA, thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu của Việt Nam vào Anh được giảm xuống 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Các nhóm hàng có lợi thế sớm nhất là tôm và một số loại cá (cá tra). Tuy nhiên, thời điểm UKVFTA có hiệu lực cũng là lúc các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam chật vật vì dịch COVID-19 nên chưa tận dụng tốt ưu đãi từ thị trường này.
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
Thái Lan
Thái Lan là thị trường đơn lẻ nhập khẩu mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm 10,7% tổng giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam. Trong 10 tháng đầu năm nay, Thái Lan đã nhập khẩu 49 triệu USD các sản phẩm hải sản này của nước ta.
Các sản phẩm mực, bạch tuộc của Việt Nam xuất sang Thái Lan gồm: bạch tuộc cắt đông lạnh, mực khô, mực khô da đen chưa chế biến, mực nang tươi làm sạch đông lạnh, mực đen khô nguyên con, mực cắt khúc đông lạnh…
Việt Nam là nguồn cung mực, bạch tuộc lớn nhất cho Thái Lan, chiếm 56%. Trung Quốc đứng thứ hai với thị phần 36%.
Nga
Trong 9 tháng năm 2021, nhập khẩu thủy sản của Nga từ Việt Nam tăng 79,8% về lượng và tăng 67,3% về trị giá so cùng kỳ năm 2020, đạt 37 nghìn tấn, trị giá 130,8 triệu USD. Thị phần thủy sản tính theo lượng của Việt Nam tại Nga tăng từ 5,26% trong 9 tháng năm 2020 lên 7,68% trong 9 tháng năm 2021.
Đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu 3 nhóm sản phẩm chính là cá tra fillet đông lạnh, cá tra cắt khoanh đông lạnh và cá tra nguyên con đông lạnh sang thị trường này. Ngoài ra, Nga là thị trường đứng thứ 9 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 1,3% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam. Tính tới nửa đầu tháng 9/2021, tôm Việt Nam xuất khẩu sang Nga đã đạt 32,5 triệu USD.
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
Đài Loan
Theo Bộ Công thương, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đài Loan đã liên tục bứt tốc từ những tháng đầu năm 2021. Trong đó, xuất khẩu 3 mặt hàng lớn nhất là tôm, cá hồi và cá tra đông lạnh đều tăng trưởng tốt.
Theo dự báo, Đài Loan là thị trường còn nhiều tiềm năng của thủy sản Việt Nam với thị hiếu đa dạng. Đài Loan cũng đóng vai trò trung gian cho rất nhiều loại sản phẩm của Việt Nam sang các thị trường châu Âu, châu Mỹ và Đông Á. Đây sẽ là những thuận lợi cho thủy sản Việt Nam gia tăng giá trị hơn nữa tại thị trường Đài Loan.
Philippines
Trong khi một số nước nhập khẩu lớn cá tra của khu vực giảm thì Philippines lại là thị trường đáng chú ý trong năm nay. 10 tháng đầu năm nay, giá trị xuất khẩu cá tra sang Philippines tăng 33%, đạt 14 triệu USD.
Đặc biệt, trong thời điểm khó khăn khi làn sóng COVID-19 lần thứ 4 trở lại, xuất khẩu thủy sản sang nhiều thị trường trọng điểm giảm từ 35 – 45% so cùng kỳ năm 2020 thì thị trường Philippines tăng 58%.
Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Philippines William Dar cho biết, nước này đã có kế hoạch tăng nhập khẩu cá nục gai và cá thu từ Việt Nam, trước lệnh cấm đánh bắt hàng năm ở nước này và nỗ lực kiềm chế giá nội địa.
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,
Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang, Xuất khẩu thủy sản từ Tiền Giang,